Nguyễn Phúc Trinh Thận ( Mai Am công chúa )

Nguyễn Phúc Trinh Thận ( Mai Am công chúa )
Địa điểm
Giới thiệu
Nguyễn Phúc Trinh Thận (chữ Hán: 阮福貞慎; 12 tháng 9 năm 1826 - 3 tháng 1 năm 1904), biểu tự Thúc Khanh (叔卿), biệt hiệu Diệu Liên (妙蓮), lại có hiệu Mai Am (梅庵), là một công chúa nhà Nguyễn và được biết đến như nữ danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.

Chi Tiết Về Nguyễn Phúc Trinh Thận ( Mai Am công chúa )

Nguyễn Phúc Trinh Thận ( Mai Am công chúa ) Chi Tiết

Nguyễn Phúc Trinh Thận (chữ Hán: 阮福貞慎; 12 tháng 9 năm 1826 - 3 tháng 1 năm 1904), biểu tự Thúc Khanh (叔卿), biệt hiệu Diệu Liên (妙蓮), lại có hiệu Mai Am (梅庵), là một công chúa nhà Nguyễn và được biết đến như nữ danh sĩ Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Tác phẩm chính của bà tập thơ Diệu Liên thi tập (妙蓮詩輯), đã từng được nhiều danh sĩ ngơi ca, ngoài ra còn một số bài ca được người dân Huế truyền tụng. Bà cùng Nguyệt Đình và Huệ Phố được liệt vào Nguyễn triều Tam Khanh (阮朝三卿) lừng danh trong văn đàn Việt Nam. Tiểu sử Hầu hết các tài liệu trước đây đều không biết được năm sinh năm mất của Mai Am nữ sĩ. Đến những năm 1990, khi nghiên cứu Diệu Liên thi tập, đối chiếu với tấm bia Tiên mẫu Thục Tân Nguyễn Khắc thị thần đạo biểu do Tùng Thiện Vương soạn và cuốn Hoàng tử Công chúa sách, các nhà nghiên cứu Viện Hán Nôm mới biết được ngày sinh mất của nữ sĩ Mai Am. Hoàng nữ Nguyễn Phúc Trinh Thận sinh giờ Hợi ngày 11 tháng 8 năm Bính Tuất (tức 12 tháng 9 năm 1826), là con gái thứ 25 của Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng với bà Thục Tần Nguyễn Thị Bửu (阮氏宝). Bà là em cùng mẹ với Tùng Thiện Vương Miên Thẩm cùng các công chúa Nguyệt Đình và Huệ Phố. Lúc nhỏ, bà sống với mẹ và ba chị em gái ở Đoan Chính viện (端政院) trong Tử Cấm Thành, sau lại dời về Sở Tiêu Viên thuộc khu dinh thự của Tùng Thiện Vương. Vì đây là khu vực thơ văn của Tùng Thiện Vương và cũng là nơi Tùng Thiện thi xã thường xuyên họp bạn thơ văn nên Mai Am đã được tiếp xúc thi thơ từ rất sớm. Tới tuổi đi học, với thân phận là con cháu hoàng tộc nên bà và chị em không được học ở trường ngoài mà được cho học trong Tôn Học đường (尊學堂) do anh ruột Tùng Thiện Vương phụ trách. Ba công chúa được sự dạy dỗ của anh nên sớm bộc lộ tài năng về thơ phú. Nguyệt Đình, Mai Am, Huệ Phố được gọi là Tam Khanh (三卿), theo ba tên tự của ba người lần lượt Trọng Khanh, Thúc Khanh và Quý Khanh. Cả ba sau này trở nên nổi tiếng lừng lẫy về tài văn chương trong giới nữ lưu ở đất kinh thành. Trong ba người, Mai Am được coi là người tài năng và nổi tiếng nhất. Bà đã sáng lập ra Thỉnh Nguyệt Đình, là nơi bà chủ trì các đêm thơ, có sự tham gia của nhiều danh sĩ đất kinh kỳ. Năm 1850, bà kết hôn với hiệu úy Thân Trọng Di (申仲怡), cháu nội quan đại thần Thân Văn Quyền, gốc ở làng Nguyệt Biều (ngoại thành Huế). Cuộc sống của bà với Thân Trọng Di, theo nhà thơ Lương An thì hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được sắt cầm hòa hợp. Năm 1863, bà mới sinh con trai đầu lòng đặt tên Thân Trọng Mậu, tuy nhiên người con chưa đầy 5 tuổi thì bị bệnh qua đời. Sau này Mai Am không sinh thêm được người con nào nữa. Đau đớn vì mất con, bà đã làm 15 bài thơ khóc con Khốc nhi thi - thập ngũ thủ, về sau có đăng trong Diệu Liên thi tập bản tái bản. Năm 1869, bà được Tự Đức phong làm Lại Đức Công chúa (賴德公主). Tháng 7 năm 1885, sau khi Hàm Nghi xuất bôn, chồng bà Thân Trọng Di mặc dù đã 60 tuổi vẫn quyết theo đi ra Quảng Trị. Trong một đợt tấn công của Pháp, quân của Thân Trọng Di tan rã còn bản thân ông bị mất tích giữa rừng, về sau vẫn không tìm được hài cốt; phải lập mộ giả để thờ. Một lần nữa, sau khi mất con, Mai Am lại viết 15 bài thơ khóc chồng, được khắc trên ngôi mộ không của ông ở xóm Đông làng Nguyệt Biều, do những người trong gia tộc họ Thân xây dựng. Ngày 3 tháng 1 năm 1904, bà qua đời, hưởng thọ 79 tuổi. Bà là người sống thọ nhất trong Tam Khanh, người em gái là công chúa Tĩnh Hòa mất vào năm 1885; còn người chị công chúa Vĩnh Trinh qua đời năm 1892. Anh của bà, Tùng Thiện Vương Miên Thẩm cũng đã qua đời vào tháng 4 năm 1870. Tẩm mộ của công chúa Lại Đức được táng tại làng Nguyệt Biều, nay là phường Thủy Biều, thành phố Huế. Tên hiệu Mai Am của bà đã được đặt tên cho một con đường nằm ở Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Sự nghiệp thơ Diệu Liên thi tập Hầu hết những bài thơ còn lại của Mai Am đều nằm trong tập thơ chữ Hán mang tên Diệu Liên thi tập hay Lại Đức công chúa Diệu Liên tập, gồm 370 bài, chia làm 3 quyển, 1 bổ di, 1 phụ lục, hiện nay vẫn còn được lưu giữ. Tập thơ in 100 bản lần đầu vào năm 1867, gồm 2 quyển, 177 bài, do chính bà tuyển chọn, được Tùng Thiện Vương đọc duyệt, Phạm Thuật và Thân Trọng Di theo dõi việc in ấn, Mặc Vân sào tàng bản. Viết lời bình có Thương Sơn (Tùng Thiện Vương), Vĩ Dã (Tuy Lý Vương), Trương Quảng Khê, Phan Lương Khê, Nguyễn Nhiệm Sơn; Nguyễn Hàm Ninh còn viết riêng lời đề tựa. Đầu năm 1891, Diệu Liên thi tập lại được Kim Giang Nguyễn Trọng Hợp tái bản, bổ sung thêm quyển III và phần bổ di. Tổng cộng trong Diệu Liên thi tập tái bản có tất cả ba bài tựa, một bài bạt, 5 lời đề, 5 bài thơ ghi cảm tưởng với lời bình về Diệu Liên thi tập của nhiều danh sĩ, trong đó 6 người Trung Quốc, ngoài ra còn có cả Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu... Phần nhiều các bài thơ là thơ cảm tác, xướng hoạ, vịnh cảnh vật và vịnh sử. Trong phần phụ lục có bài văn phúng Mộng Tùng của Thiên Sơn, câu đối và bài phú nói về sinh phần Diệu Cao Phong của Tùng Thiện Vương. Khoảng 370 bài thơ được sắp xếp theo thứ tự thời gian, có thể coi là một "nhật ký" bằng thơ. Bài đầu tiên sáng tác 1847, khi bà 21 tuổi, cho đến những bài cuối cùng năm 1890. Phần lớn những bài này đều có lời dẫn, nhờ thế nó không chỉ là tác phẩm thơ mà còn có giá trị giúp xác định nhiều tư liệu về tiểu sử của Mai Am lẫn nhiều chi tiết liên quan đến những người cùng thời như Tùng Thiện Vương, Huệ Phố, Bà Huyện Thanh Quan, Bùi Dị, Nguyễn Hàm Ninh…